Định nghĩa
Vết thương ác tính là biểu hiện bên ngoài của tế bào ung thư ác tính hay nói cách khác những vết thương này là biểu hiện của việc nhìn nhận căn bệnh ung thư từ bên ngoài. Trong thời gian bị ung thư, việc vết thương chậm lành có thể xảy ra do những thay đổi trên da, tế bào máu, mạch máu và hệ thống miễn dịch. Một vết thương ác tính có thể là kết quả của hoại tử khối u, tế bào khối u mọc lên, vết thương ung thư gây loét hoặc vết thương ngoài da ác tính.
Biểu hiện
Khoảng 5% đến 10% bệnh nhân ung thư sẽ phát triển các vết thương ác tính. Biểu hiện của các vết thương ác tính này bao gồm:
Các nốt sần
Nếu vết thương ác tính đang phát triển, nó thường xuất hiện đầu tiên dưới dạng nốt sần dưới da. Những nốt sần này có thể mềm hoặc không mềm và chúng có thể có màu sắc khác nhau từ màu thịt, màu hồng đến màu be. Đôi khi, chúng có màu nâu, xanh hoặc tím.
Phù và hoại tử
Một khi ung thư bắt đầu phát triển, lượng tưới máu đến da sẽ ít hơn và các mạch bạch huyết cũng bị ảnh hưởng. Điều này khiến cho một số vùng da có thể bắt đầu có hiện tượng phù nhẹ hoặc hoại tử.
Các biểu hiện khác khi ung thư phát triển
Biểu hiện này có thể bao gồm hình dạng súp lơ trên da hoặc hình dạng miệng hố hoặc miệng núi lửa trên da.
Khi ung thư di căn, các bác sĩ lâm sàng nên dự đoán rằng nó cũng sẽ ảnh hưởng đến các cấu trúc sâu hơn của cơ thể, chẳng hạn như lỗ rò trên nền vết thương hoặc gãy xương bệnh lý ở các chi.
Những vết thương ác tính có thể xảy ra với bất kỳ loại ung thư nào. Tuy nhiên, chúng thường được thấy nhất với các bệnh ung thư đầu và cổ, vú, háng (dương vật, buồng trứng, âm hộ và trực tràng), và đôi khi là ung thư da.
Năm cách vết thương ác tính xảy ra
Bất cứ nơi nào có khối u ung thư trong cơ thể thì đó là vị trí có khả năng xuất hiện các vết thương. Hai ví dụ là ung thư vú có thể dẫn đến vết thương ở vú và ngực, và ung thư xương hoặc da dẫn đến gãy xương tứ chi.
Các vết thương ác tính có thể phát triển từ một số tình trạng, bao gồm:
Ung thư da nguyên phát: Ung thư biểu mô tế bào vảy và tế bào đáy, khối u ác tính.
Khối u nguyên phát: Sarcoma vú hoặc mô mềm nơi khối u ăn mòn qua da.
Khối u có di căn: Khi các tế bào xâm lấn vào máu hoặc hệ bạch huyết, chẳng hạn như khi ung thư phổi di căn đến hệ bạch huyết hiện diện ở da.
Vết thương mãn tính: Vết loét ở chi dưới có thể trở thành ác tính.
Phương pháp chăm sóc tại chỗ cho vết thương ác tính
Các triệu chứng của vết thương ác tính thường có thể được kiểm soát thành công bằng cách đánh giá tốt và thực hành chăm sóc vết thương. Bằng cách xử lí các vấn đề tại chỗ của vết thương như dịch tiết, mùi hôi, nhiễm trùng, chảy máu, kiểm soát cơn đau,…Chúng ta phần nào có thể kiểm soát và hạn chế những tiến triển xấu hơn của một vết thương ác tính.
Làm sạch vết thương
Việc làm sạch vết thương không đúng cách có thể dẫn đến vết thương bị tổn thương đáng kể kèm theo đau đớn và chảy máu. Do đó, khuyến cáo rằng các vết thương ác tính nên được làm sạch bằng cách tưới nhẹ nhàng bằng dung dịch natri clorua 0,9% hoặc nước ấm, hoặc tối ưu nhất là sử dụng các loại dung dịch lành tính được chỉ định là không gây tổn thương cho các tế bào. Nên tránh dùng bông gòn vì nguy cơ bong ra sợi, cũng như dung dịch tưới lạnh hoặc tưới áp suất cao, có thể gây đau đớn hoặc khó chịu cho bệnh nhân (Naylor, 2002).
Kiểm soát dịch tiết và mùi hôi
Mùi hôi là vấn đề thường gặp ở những bệnh nhân có vết thương ác tính. Những điều này có thể khiến cho bệnh nhân rơi vào tâm lí xấu hổ và mùi khó chịu đôi khi có thể lan ra toàn bộ ngôi nhà.
Nguyên nhân chính gây ra vết thương nặng mùi là:
- Giả mạc trong vết thương
- Quản lý dịch tiết kém
- Sử dụng băng quá lâu
- Vết thương nhiễm trùng
Mùi hôi của vết thương chủ yếu là do vi khuẩn hiếu khí và kỵ khí xâm chiếm các vùng ẩm ướt của mô hoại tử. Điều trị ban đầu có thể liên quan đến việc cắt bỏ mô, mặc dù việc cắt bỏ cơ học thường không được ủng hộ vì các vết thương ác tính thường có xu hướng chảy máu ở những chấn thương dù là nhỏ nhất (Young, 1997). Trong trường hợp này, cần cân nhắc các sản phẩm bôi tại chỗ/ băng gạc có khả năng làm mềm các giải mạc trên nền vết thương, hỗ trợ cho thao tác loại bỏ mà không cần phải can thiệp cắt lọc.
Băng than hoạt tính và băng tẩm ion Bạc (Ag+) có thể hữu ích trong việc ngăn chặn mùi hôi (Kelly, 2002). Sự phát triển của băng tẩm Bạc (Ag+) và băng foam polyurathane có khả năng khóa giữ vi khuẩn tỏ ra rất hiệu quả trong việc kiểm soát rò rỉ dịch tiết, ngăn ngừa sự úng da và kiểm soát mùi hôi của vết thương.
Băng có độ hấp thụ và lưu trữ cao có thể được sử dụng cho các vết thương có nhiều dịch tiết . Đối với lỗ rò, hãy cân nhắc dùng băng gạc tạo gel để giúp dẫn lưu dịch. Lưu ý khi lựa chọn các loại băng gạc này, cần cân nhắc cấu trúc của chúng, ưu tiên khả năng bền bỉ không bị rã trong nền vết thương để không tăng nguy cơ nhiễm trùng.
Một trong những cách khác để chống lại mùi hôi là sử dụng những mùi hương quen thuộc, dễ chịu hơn vào phòng bệnh nhân. Đồng thời hãy lựa chọn những dung dịch rửa vết thương có khả năng khử mùi hôi trên vết thương một cách nhanh chóng. Điều này sẽ giúp cho sinh hoạt của bệnh nhân trở nên thuận tiện hơn, hạn chế tâm lí tự ti, mặc cảm.
Kiểm soát sự chảy máu & kiểm soát cơn đau
Các vết thương ác tính đang phát triển rất mỏng manh và dễ chảy máu, đặc trưng là sự rỉ dịch mao mạch chậm. Chảy máu có thể xảy ra dễ dàng hơn khi thay băng. Tuy nhiên, việc sử dụng băng không dính và rửa vết thương nhẹ nhàng sẽ làm giảm nguy cơ (Naylor, 2002). Việc quản lý dịch tiết phụ thuộc vào vật liệu phù hợp được trang bị cho vết thương và đường cong tự nhiên của cơ thể (Grocott, 1999; 1998).
Thuốc kháng sinh tại chỗ thường được sử dụng đầu tiên nếu nhiễm trùng vết thương phát triển.Bên cạnh đó, các bác sĩ lâm sàng cũng nên biết rằng nếu vết thương khô, nên bổ sung độ ẩm nếu cần. Hiện nay có nhiều loại băng gạc hoặc các loại kem/ gel có thể đáp ứng tốt khả năng cấp ẩm cho nền vết thương. Hãy cân nhắc đến các sản phẩm có thành phần lành tính để vết thương không bị kích ứng và lan rộng.
Băng Mepilex® có khả năng thấm hút cao và duy trì môi trường ẩm cho vết thương, bảo vệ nền vết thương
Tổng kết
Các bác sĩ lâm sàng chưa quen với các vết thương ác tính cần biết rằng trừ khi bệnh nhân được chăm sóc chữa bệnh bằng hóa trị hoặc xạ trị, vết thương của họ sẽ trở nên tồi tệ hơn khi ung thư tiến triển.
Không thể đánh giá thấp tác động của vết thương ác tính đến tính mạng của bệnh nhân. Nó có thể có tác động tàn phá đến tình trạng thể chất, tâm lý và xã hội của người đó cũng như ảnh hưởng đến gia đình và bạn bè. Nhiều người mắc loại vết thương này không tìm kiếm sự giúp đỡ hoặc lời khuyên từ các chuyên gia y tế và tự mình xử lý vết thương. Việc không tìm kiếm sự giúp đỡ này có thể xuất phát từ nỗi sợ bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư hoặc do bối rối vì vị trí của vết thương.
Điều trị bệnh nhân có vết thương ác tính cũng cần điều trị tâm lý xã hội. Những bệnh nhân này có thể trở nên trầm cảm, xấu hổ về vết thương và mùi hôi của họ, cảm thấy tuyệt vọng và tự cô lập mình. Điều quan trọng là cần nói chuyện với họ để giải quyết cảm xúc của họ và tạo điều kiện giúp đỡ từ nhân viên y tế.
Đồng thời với đó, cần tìm ra những giải pháp tối ưu nhất để xử lí các vấn đề tại chỗ cho vết thương của bệnh nhân.Các bác sĩ lâm sàng phải nhớ là bạn vẫn có thể cung cấp cho bệnh nhân dịch vụ chăm sóc vết thương tối ưu, giảm đau, giảm thiểu mùi hôi và giúp họ thoải mái hơn.
Thủy Tiên